Trong văn học Thục Chế

Theo truyện "Cẩu chủa cheng vùa" (chín chúa tranh vua) của người Tày thì quốc gia nằm ở phía bắc Lạc Việt ấy chính là nước Nam Cương.

Vị trí thành Bản Phủ của Thục Chế tại nước Nam Cương

Vùng đất Cao Bình xưa (nay thuộc địa phận tỉnh Cao Bằng) nằm dọc theo hai bên bờ của sông Bằng Giang, nơi trung tâm của bồn địa Hoà An. Theo truyền thuyết, đây vốn là kinh đô của nước Nam Cương thời Thục Phán, khi ấy gọi là Nam Bình.[4] Trước đó cha của Thục Phán là Thục Chế đã từng sinh sống, đắp đất xây thành luỹ để phòng thủ, bảo vệ dân làng trước giặc ngoại xâm. Thành Bản Phủ làm vương phủ, xây dựng vào năm 214 TCN. Cuộc đời của Thục chế bao gồm 3 giai đoạn:

Làm chúa người Tày

Sau khi nước Thục bị Tần diệt, con nhỏ vua Thục là Thục Chế được 1 viên tướng cõng chạy trốn về phía Đông Nam, vượt qua lãnh thổ người Khương Nhung chạy xuống vùng Xích Quỷ và gia nhập cộng đồng người Tày cổ đại ở đây. Lúc đó thế lực Tày rất yếu, dân tộc Tày đã không còn khả năng kiểm soát lãnh thổ của mình trước sự lớn mạnh của thế lực Người Miêu ở phía Tây và Người Nùng ở phía Đông[cần dẫn nguồn], họ thường phải nhún nhường hoặc chủ động làm hòa khi xảy ra tranh chấp. Chúa Tày ngày càng yếu bệnh, hai con trai là Tày MôTày Bính lại còn nhỏ. Thấy Thục Chế khỏe mạnh dị thường, nên dù là người ngoại tộc nhưng vẫn gả con gái và nhường ngôi cho Thục Chế. Ông trước khi chết có gửi gắm cho người con rể Thục Chế về giấc mơ về dân tộc Tày hùng mạnh, đó là nguồn cảm hứng và động lực cho Thục Chế xây dựng một đế chế Nam Cương hùng mạnh sau này.

Chinh phục các xứ Mường

Thục Chế sau khi làm chúa, ông đã chọn một mảnh đất bằng phẳng trên lãnh thổ của mình để xây dựng Thành Bản Phủ làm căn cứ đầu não. Ông cho xây phủ, chợ, nhà dân.. rồi đắp tường và đào hầm chông xung quanh thành. Ông cho dựng ải, đắp lũy ở những khu vực trọng yếu dẫn vào kinh đô. Ông cải cách nông nghiệp và huấn luyện lại quân đội. Người Tày dần dần trở nên hùng cường.

Năm 30 tuổi, Thục Chế mở cuộc viễn chinh đầu tiên lên vùng tây bắc của người Miêu. Lúc đầu quân Tày thường xuyên gặp phải khó khăn và thất bại. Sau nhờ sử dụng kế của Tày Mô, đi theo đường mòn vòng về phía sau vương phủ của Miêu chủ, đốt phá ruộng nương, khiến quân xứ Miêu kinh sợ mà đầu hàng. Bình định xong Hà Giang, Thục Chế tiếp tục đưa quân tràn sang Bách Sắc (nay thuộc Trung Quốc) chinh phục Người Cờ Lao, những trận ác chiến đã diễn ra với thương vong lớn cho cả hai bên, nhưng cuối cùng Thục Chế cũng đã chặt đầu được vua Ngật Lão của phe địch và giành chiến thắng.

Ở căn cứ Cao Bằng, nhân cơ hội Thục Chế đang bận chiến sự ở xa, Người Pà Thẻn từ Bắc Kạn đem quân lên đánh Thành Bản Phủ, Tày Bính với lực lượng ít ỏi, phải đóng cổng thành phòng thủ, đợi quân chủ lực của anh rể về. Quân Pà Thẻn đánh thành không hiệu quả đâm chán nản, trễ nải. Để đến đầu thu khi đội quân chiến thắng của Thục Chế trở về, quân Tày phản kích, tựa như hổ báo sài lang, đánh 1 mạch từ Cao Bằng đến tận căn cứ đầu não của Người Pà ThẻnBắc Kạn. Bắt vua Người Pà Thẻn phải quỳ gối xin hàng.

Phía đông Cao BằngLạng Sơn, lãnh thổ của người Nùng. Vua Nùng thời kỳ ấy là 1 thanh niên trẻ tuổi, khôn ngoan và có tầm nhìn rộng. Ông đã chủ động liên kết hôn nhân với người Dao (Lạng Sơn) và Người Đản (Thái Nguyên). Tạo liên kết đồng minh với các bộ lạc tộc người Sán (Sán Chay, Sán Dìu..) ở Quảng Ninh- Phòng Thành Cảng. Các dân tộc này cùng tạo nên 1 khối liên minh với mục đích chung là chống lại sự bành trướng của người Tày. Thục Chế biết vua Nùng rất yêu thương công chúa người Dao, nên đã dụ dỗ nàng bỏ đi theo mình. Nùng chủ mất lý trí, sai quân đi tìm vợ khắp nơi, để lại tòa thành trống cho Thục Chế tấn công và tiêu diệt.

Thục Chế nhanh chóng khuất phục người DaoNgười Đản bằng cách ly gián và dụ hàng. Sau cùng tiến hành những trận thủy chiến tiêu diệt các thủ lĩnh người Sán ở các mê cung đá vôi thuộc Vịnh Hạ Long ngày nay. Năm 220 TCN, Thục Chế trở thành vị vua đầu tiên của toàn bộ vùng phía nam Xích Quỷ. Ông đặt tên nước là Nam Cương, lấy Thành Bản Phủ làm kinh đô, chia đất cho các chúa mường đã khuất phục Người Tày cai quản.

Chống Hùng vương (Văn Lang) và Dịch Hu Tống (Tây Âu)

Sau 10 năm bình ổn đất nước, Thục Chế tiến hành các cuộc chinh phạt xuống Văn Lang nhưng đều không hiệu quả. Các vị Hùng Vương đời thứ 16 và 17 thường chủ động đem quân đánh chặn ở những nơi yếu hiểm như sông Công, núi Tiên Du khiến quân Nam Cương (Âu Việt) không thể tiến đến được Phong Châu (kinh đô Văn Lang).

Ngoài ra Thục Chế cũng từng có tranh chấp biên giới với Dịch Hu Tống (vua người Lê nước Tây Âu). Cả hai từng giao đấu với nhau nhiều lần.